Đề cương giới thiệu Luật Trưng cầu ý dân

Xem với cỡ chữ : A- A A+

 ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU LUẬT TRƯNG CẦU Ý DÂN

Theo Trang thông tin về phổ biến giáo dục pháp luật, Bộ tư pháp

--------------------------------------------------

 

BỘ TƯ PHÁP

VỤ PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

HỘI LUẬT GIA VIỆT  NAM

BAN NGHIÊN CỨU, XÂY DỰNG VÀ PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT

 

 

 

 

 

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU LUẬT TRƯNG CẦU Ý DÂN

 

Luật trưng cầu ý dân (sau đây gọi tắt là Luật) được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/11/2015; Luật được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 08/12/2015 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016 

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT

Việc ban hành Luật xuất phát từ các lý do chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, để kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về phát huy dân chủ và quyền làm chủ của Nhân dân, mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia vào công việc của Nhà nước, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.

Thứ hai, phản ánh nhu cầu khách quan, cần thiết phải điều chỉnh bởi luật nhằm tạo lập khuôn khổ pháp lý cho người dân tham gia chủ động, tích cực vào việc quyết định các công việc của Nhà nước và xã hội phù hợp với bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; góp phần thiết thực vào việc phản ánh các giá trị tư tưởng trọng dân, tin dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc được thể hiện rõ trong truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, trong Tư tưởng Hồ Chí Minh và trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.

Thứ ba, xuất phát từ bản chất sâu xa của trưng cầu ý dân là một phương thức để người dân trực tiếp thể hiện ý chí và quyền lực của mình đối với các vấn đề quan trọng của đất nước trong từng thời điểm cụ thể; việc ban hành Luật góp phần tạo ra cơ sở pháp lý đồng bộ và những điều kiện thuận lợi để người dân trực tiếp thể hiện ý chí và quyền lực của mình đối với các vấn đề quan trọng của đất nước, đáp ứng nhu cầu khách quan trong sự nghiệp đổi mới đất nước.

Thứ tư, tạo điều kiện để Nhân dân có thể tham gia sâu hơn, có tính quyết định với tư cách chủ thể vào những vấn đề quan trọng của đất nước, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế, nhất là trong bối cảnh Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên hầu hết các lĩnh vực hiện nay.

II. CÁC QUAN ĐIỂM CƠ BẢN XÂY DỰNG LUẬT

Việc xây dựng Luật phải xuất phát từ những quan điểm chỉ đạo sau đây:

1. Thể chế hóa các quan điểm của Đảng về phát huy dân chủ và quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN; xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; về phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường đoàn kết và đồng thuận xã hội, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho Nhân dân thực hiện quyền làm chủ, tham gia rộng rãi, trực tiếp vào những vấn đề trọng đại của đất nước thông qua các cuộc trưng cầu ý dân được tổ chức theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

2. Nội dung của Luật phải phù hợp với quy định của Hiến pháp và các luật có liên quan, góp phần bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.

3. Xây dựng Luật phải dựa trên cơ sở thực tiễn và phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, phản ánh đúng các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam hiện nay và phải tính đầy đủ các điều kiện bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành của Luật.

4. Đảm bảo tính kế thừa và phát triển các kết quả của công tác xây dựng pháp luật của nước ta qua các thời kỳ; nghiên cứu, tiếp thu kinh nghiệm của các nước về xây dựng, thực hiện pháp luật về trưng cầu ý dân.

III. BỐ CỤC CỦA LUẬT

Luật gồm 8 chương, 52 Điều:

- Chương I gồm 13 điều (từ Điều 1 đến Điều 13) quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; nguyên tắc trưng cầu ý dân; người có quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân; các vấn đề trưng cầu ý dân; phạm vi tổ chức, ngày bỏ phiếu, các trường hợp không tổ chức trưng cầu ý dân; giám sát việc tổ chức trưng cầu ý dân; hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân; kinh phí tổ chức và các hành vi bị nghiêm cấm.

- Chương II gồm 4 điều (từ Điều 14 đến Điều 17) quy định về đề nghị trưng cầu ý dân; về thẩm tra, xem xét, cho ý kiến về đề nghị trưng cầu ý dân; việc Quốc hội xem xét, quyết định việc trưng cầu ý dân.

- Chương III gồm 6 điều (từ Điều 18 đến Điều 23) quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc tổ chức trưng cầu ý dân; việc thành lập các Tổ trưng cầu ý dân; cơ quan giúp việc và việc trưng tập cán bộ, công chức, viên chức trong trưng cầu ý dân và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang Nhân dân và Nhân dân trong việc tổ chức trưng cầu ý dân.

- Chương IV gồm 7 điều (từ Điều 24 đến Điều 30) quy định về nguyên tắc lập danh sách cử tri; các trường hợp không được ghi tên, bị xóa tên, được bổ sung tên vào danh sách cử tri; thẩm quyền lập danh sách, việc niêm yết danh sách, khiếu nại và giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri; việc cử tri bỏ phiếu nơi khác và quy định về khu vực bỏ phiếu trưng cầu ý dân.

- Chương V gồm 4 điều (từ Điều 31 đến Điều 34) quy định về mục đích, nguyên tắc, nội dung, các hình thức thông tin, tuyên truyền về trưng cầu ý dân và trách nhiệm cơ quan, tổ chức trong thông tin, tuyên truyền về trưng cầu ý dân.

- Chương VI gồm 5 điều (từ Điều 35 đến Điều 39) quy định về phiếu trưng cầu ý dân; thời gian, địa điểm bỏ phiếu; việc bỏ phiếu sớm, hoãn ngày bỏ phiếu; quyền, nghĩa vụ của cử tri và nguyên tắc bỏ phiếu trưng cầu ý dân.

- Chương VII gồm 10 điều (từ Điều 40 đến Điều 49) quy định về kiểm phiếu; phiếu không hợp lệ; khiếu nại, tố cáo về kiểm phiếu; biên bản kết quả kiểm phiếu của Tổ trưng cầu ý dân; kết quả trưng cầu ý dân; báo cáo kết quả trưng cầu ý dân của Ủy ban nhân dân các cấp và việc báo cáo Quốc hội về kết quả trưng cầu ý dân của Ủy ban thường vụ Quốc hội; việc bỏ phiếu lại; xác định và công bố kết quả trưng cầu ý dân; báo cáo Quốc hội về kết quả trưng cầu ý dân.

- Chương VIII gồm 3 điều (từ Điều 50 đến Điều 52) quy định về xử lý vi phạm pháp luật về trưng cầu ý dân; về hiệu lực thi hành và việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật.

IV. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT

1. Phạm vi điều chỉnh (Điều 1)

Phạm vi điều chỉnh của Luật bao gồm các quy định về việc trưng cầu ý dân; nguyên tắc trưng cầu ý dân; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức trong trưng cầu ý dân; trình tự, thủ tục quyết định việc trưng cầu ý dân và tổ chức trưng cầu ý dân; kết quả và hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân.

 

2. Khái niệm trưng cầu ý dân

Trưng cầu ý dân là việc Nhà nước tổ chức để cử tri cả nước trực tiếp biểu quyết bằng hình thức bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước theo quy định của Luật. Việc ban hành Luật trưng cầu ý dân không hạn chế việc Nhà nước tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với những vấn đề đã được quy định trong Hiến pháp và pháp luật.

Trưng cầu ý dân và lấy ý kiến Nhân dân tuy cùng là hình thức để Nhân dân phát huy quyền dân chủ trực tiếp tham gia, thể hiện ý kiến với Nhà nước nhưng giữa chúng có sự khác nhau về nội dung, hình thức và giá trị pháp lý, cụ thể là:

Thứ nhất, về nội dung, vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân là những vấn đề quan trọng của đất nước, có phạm vi ảnh hưởng toàn quốc và phải do Quốc hội quyết định; còn vấn đề lấy ý kiến Nhân dân có thể là các vấn đề ở mức độ, phạm vi khác nhau, thuộc nhiều lĩnh vực do nhiều cơ quan quyết định, có thể là vấn đề ở tầm quốc gia hoặc chỉ là các vấn đề liên quan đến một hoặc một số địa phương.

Thứ hai, về hình thức, trong trưng cầu ý dân, người dân thể hiện ý chí của mình thông qua việc bỏ phiếu kín, còn trong lấy ý kiến Nhân dân thì các hình thức để người dân thể hiện ý chí thường linh hoạt hơn như bỏ phiếu, lấy ý kiến vào văn bản hoặc phát biểu trực tiếp tại các hội nghị, cuộc họp….

Thứ ba, về giá trị pháp lý, trưng cầu ý dân có giá trị quyết định, có thể thi hành ngay đối với vấn đề được đưa ra trưng cầu; còn kết quả lấy ý kiến Nhân dân là cơ sở để cơ quan, tổ chức lấy ý kiến xem xét, quyết định.

Thứ tư, về đối tượng, trưng cầu ý dân chỉ gồm các cử tri, còn đối tượng của việc lấy ý kiến Nhân dân có thể là cơ quan, tổ chức, cá nhân, hộ gia đình...

3. Nguyên tắc trưng cầu ý dân (Điều 4)

Các nguyên tắc trưng cầu ý dân là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt các khâu, các bước trong trưng cầu ý dân. Theo đó có các nguyên tắc sau đây:

1. Bảo đảm để Nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội.

2. Thực hiện nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín khi trưng cầu ý dân.

3. Việc trưng cầu ý dân phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục do Luật này quy định.  

4. Người có quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân (Điều 5)

Luật quy định cử tri trong trưng cầu ý dân cơ bản thống nhất như cử tri trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp được quy định trong Luật bầu cử Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng nhân dân. Theo đó: “Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đủ mười tám tuổi trở lên tính đến ngày trưng cầu ý dân có quyền bỏ phiếu để biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 25 của Luật này”.

5. Các vấn đề trưng cầu ý dân (Điều 6)

Để xác định cụ thể những vấn đề nào phải đưa ra trưng cầu ý dân phụ thuộc vào yêu cầu thực tế, vào điều kiện, hoàn cảnh tại từng thời điểm và phù hợp với Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội và các văn bản pháp luật có liên quan, Luật quy định Quốc hội xem xét, quyết định trưng cầu ý dân về các vấn đề sau đây:

1. Toàn văn Hiến pháp hoặc một số nội dung quan trọng của Hiến pháp;

2. Vấn đề đặc biệt quan trọng về chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của quốc gia;

3. Vấn đề đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước;

4. Vấn đề đặc biệt quan trọng khác của đất nước. 

6. Phạm vi tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 7)

Luật quy định: “Trưng cầu ý dân được thực hiện trong phạm vi cả nước”. Điều này phù hợp với quy định của Hiến pháp về thẩm quyền quyết định trưng cầu ý dân của Quốc hội. Những vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân phải là những vấn đề có ý nghĩa ở tầm quốc gia đưa ra để toàn dân quyết định.

7. Ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân (Điều 8)

   Để cử tri tham gia đông đảo vào việc bỏ phiếu trưng cầu ý dân và có thời gian hợp lý cho việc tổ chức trưng cầu ý dân, Luật quy định: “Ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân là ngày chủ nhật, do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định và được công bố chậm nhất là 60 ngày trước ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân .

8. Các trường hợp không tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 9)

Để việc tổ chức trưng cầu ý dân được thành công, tránh trường hợp tổ chức trưng cầu ý dân vào những hoàn cảnh không phù hợp Luật quy định:

1. Không tổ chức lại việc trưng cầu ý dân về nội dung đã được trưng cầu ý dân trong thời hạn 24 tháng kể từ ngày kết quả trưng cầu ý dân được công bố.

2. Không tổ chức trưng cầu ý dân trong thời gian ban bố tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày bãi bỏ tình trạng chiến tranh, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước. 

9. Giám sát việc tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 10)

Trưng cầu ý dân là sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, thể hiện quyền dân chủ trực tiếp của công dân trong việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Để cuộc trưng cầu ý dân được tiến hành dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch theo đúng quy định của pháp luật thì việc quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, các nhân và công dân trong giám sát việc trưng cầu ý dân là cần thiết. Trách nhiệm giám sát việc tổ chức trưng cầu ý dân được Luật quy định như sau:

1. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc tổ chức trưng cầu ý dân.

2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và Nhân dân giám sát việc tổ chức trưng cầu ý dân theo quy định của pháp luật.

10. Về hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân (Điều 11)

Theo quy định của Luật, kết quả trưng cầu ý dân có giá trị quyết định đối với vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân và có hiệu lực kể từ ngày công bố. Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng kết quả trưng cầu ý dân. Cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức và bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh kết quả trưng cầu ý dân.

11. Các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 13)

Để kết quả cuộc trưng cầu ý dân phản ánh đúng thực chất ý chí, nguyện vọng của cử tri, phòng ngừa các hành vi vi phạm, Luật quy định các hành vi sau đây bị nghiêm cấm:

1. Tuyên truyền, đưa thông tin sai lệch về nội dung, ý nghĩa của việc trưng cầu ý dân.

2. Dùng thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép, cản trở làm cho cử tri không thực hiện hoặc thực hiện việc bỏ phiếu trưng cầu ý dân trái với mong muốn của mình.   

3. Giả mạo giấy tờ, gian lận hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả trưng cầu ý dân.

4. Lợi dụng việc trưng cầu ý dân để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân.

5. Vi phạm quy định về bỏ phiếu, kiểm phiếu trưng cầu ý dân, quy định khác của Luật này.

12. Cơ quan, người có quyền đề nghị trưng cầu ý dân (Điều 14)

Trưng cầu ý dân là hình thức quan trọng để thực hiện quyền dân chủ trực tiếp cao nhất của người dân đã được quy định trong Hiến pháp và để thống nhất với Luật tổ chức Quốc hội, phù hợp với vị trí, chức năng, vai trò của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị nước ta, Luật quy định:

 - Chủ thể có quyền đề nghị trưng cầu ý dân bao gồm: Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất là một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định việc trưng cầu ý dân.

- Về thủ tục đề nghị trưng cầu ý dân, Luật quy định: trường hợp có từ một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội trở lên kiến nghị Quốc hội quyết định việc trưng cầu ý dân về cùng một vấn đề thì Ủy ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm tổng hợp các kiến nghị của đại biểu Quốc hội, chuẩn bị hồ sơ theo quy định tại khoản 3 Điều này trình Quốc hội xem xét, quyết định. 

Việc kiến nghị và tổng hợp kiến nghị của đại biểu Quốc hội được thực hiện theo quy định tại Điều 33 của Luật tổ chức Quốc hội.

- Hồ sơ đề nghị trưng cầu ý dân gồm:

+ Tờ trình đề nghị trưng cầu ý dân, trong đó nêu rõ sự cần thiết của việc tổ chức trưng cầu ý dân, nội dung cần trưng cầu ý dân, dự kiến thời điểm tổ chức trưng cầu ý dân, các phương án, giải pháp để thực hiện kết quả trưng cầu ý dân;

+ Dự thảo nghị quyết của Quốc hội về trưng cầu ý dân;

+ Tài liệu khác có liên quan (nếu có).

13. Thẩm tra đề nghị trưng cầu ý dân; Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về đề nghị trưng cầu ý dân; Quốc hội xem xét, quyết định việc trưng cầu ý dân (Điều 15-Điều 17)

Trưng cầu ý dân là sự kiện chính trị-pháp lý đặc biệt quan trọng, việc tổ chức đòi hỏi công phu và tốn kém, vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân phải là vấn đề thực sự xác đáng. Do vậy, Luật quy định, trước khi trình Quốc hội xem xét, quyết định việc trưng cầu ý dân, đề nghị trưng cầu ý dân phải được Hội đồng dân tộc, Ủy ban có liên quan của Quốc hội thẩm tra; Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến.

- Thẩm tra đề nghị trưng cầu ý dân (Điều 15): Nội dung thẩm tra đề nghị trưng cầu ý dân tập trung vào sự cần thiết của việc tổ chức trưng cầu ý dân; đối tượng, phạm vi tác động của vấn đề trưng cầu ý dân; nội dung cần trưng cầu ý dân; thời điểm trưng cầu ý dân; các phương án, giải pháp để thực hiện kết quả trưng cầu ý dân. Báo cáo thẩm tra phải thể hiện rõ quan điểm của cơ quan thẩm tra về những nội dung trên, phản ánh đầy đủ ý kiến của thành viên cơ quan chủ trì thẩm tra, ý kiến của cơ quan tham gia thẩm tra, việc đủ hoặc chưa đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, quyết định việc trưng cầu ý dân.

Việc thẩm tra đề nghị trưng cầu ý dân phải được thực hiện tại phiên họp toàn thể của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội. Cơ quan chủ tŕ thẩm tra có trách nhiệm mời đại diện Thường trực Hội đồng dân tộc, Thường trực Ủy ban khác của Quốc hội, cơ quan, tổ chức có liên quan tham dự phiên họp thẩm tra để phát biểu ý kiến về những nội dung của đề nghị trưng cầu ý dân.

Cơ quan thẩm tra có quyền yêu cầu cơ quan, người đã đề nghị trưng cầu ý dân báo cáo, cung cấp thông tin, tài liệu về những vấn đề liên quan đến nội dung đề nghị trưng cầu ý dân. Cơ quan, người được yêu cầu có trách nhiệm đáp ứng các yêu cầu của cơ quan thẩm tra.

- Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về đề nghị trưng cầu ý dân (Điều 16): Khi xét thấy đề nghị của cơ quan, người có thẩm quyền đề nghị trưng cầu ý dân đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của Luật này, Ủy ban thường vụ Quốc hội đưa nội dung quyết định việc trưng cầu ý dân vào dự kiến chương trình làm việc của Quốc hội tại kỳ họp gần nhất để trình Quốc hội xem xét, quyết định.

- Quốc hội xem xét, quyết định việc trưng cầu ý dân (Điều 17): Trên cơ sở đề nghị trưng cầu ý dân của cơ quan, người có thẩm quyền và báo cáo thẩm tra, Quốc hội thảo luận và biểu quyết thông qua nghị quyết về trưng cầu ý dân. Nghị quyết của Quốc hội về trưng cầu ý dân phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành và được công bố theo quy định của pháp luật.

14. Về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức trong tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 18-Điều 21)

Hiến pháp năm 2013 đã quy định Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân, Ủy ban thường vụ Quốc hội chịu trách nhiệm tổ chức trưng cầu ý dân, hơn nữa, trưng cầu ý dân là hoạt động không thường xuyên, do đó, để phù hợp với quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội, đồng thời để các cơ quan phụ trách tổ chức trưng cầu ý dân được tổ chức gọn nhẹ, hợp lý, việc tổ chức trưng cầu ý dân sẽ do Ủy ban thường vụ Quốc hội tự mình trực tiếp thực hiện và chỉ đạo việc tổ chức trưng cầu ý dân trên toàn quốc, Chính phủ là cơ quan phối hợp với Ủy ban thường vụ Quốc hội trong tổ chức trưng cầu ý dân, việc tổ chức trưng cầu ý dân ở địa phương sẽ giao cho Ủy ban Nhân dân các cấp thực hiện.

Luật cũng quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban nhân dân các cấp có quyền thành lập hoặc phân công cơ quan chuyên môn trực thuộc để giúp việc trong tổ chức trưng cầu ý dân; việc thành lập tổ trưng cầu ý dân ở mỗi khu vực bỏ phiếu; trưng tập cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập để giúp thực hiện các công việc liên quan đến tổ chức trưng cầu ý dân.

Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các cơ quan, tổ chức trong trưng cầu ý dân được quy định cụ thể từ Điều 18 đến Điều 21 Luật này, trong đó:

- Ủy ban thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn sau (Điều 18): Quyết định ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân, bỏ phiếu sớm, hoãn ngày bỏ phiếu, bỏ phiếu lại; chỉ đạo, hướng dẫn việc tổ chức trưng cầu ý dân trong phạm vi cả nước; chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền về trưng cầu ý dân; quy định về phiếu trưng cầu ý dân, mẫu thẻ cử tri trong trưng cầu ý dân, nội quy phòng bỏ phiếu và các mẫu văn bản khác sử dụng trong việc tổ chức trưng cầu ý dân; yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình tổ chức trưng cầu ý dân; nhận và kiểm tra báo cáo kết quả trưng cầu ý dân do Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh gửi đến; lập báo cáo tổng hợp kết quả trưng cầu ý dân trong phạm vi cả nước; kiểm tra, giám sát việc tổ chức trưng cầu ý dân; giải quyết khiếu nại, tố cáo về kết quả trưng cầu ý dân. Quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội là quyết định cuối cùng; xác định, công bố kết quả trưng cầu ý dân trong cả nước và báo cáo Quốc hội về kết quả tổ chức trưng cầu ý dân tại kỳ họp gần nhất. 

- Chính phủ có nhiệm vụ, quyền hạn sau (Điều 19): Chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban Nhân dân các cấp thực hiện các công việc trong tổ chức trưng cầu ý dân theo quy định của pháp luật; chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong quá trình tổ chức trưng cầu ý dân; bảo đảm về kinh phí và các điều kiện cần thiết khác phục vụ việc tổ chức trưng cầu ý dân; hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí trong tổ chức trưng cầu ý dân; phối hợp với Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền về trưng cầu ý dân; Phối hợp với Ủy ban thường vụ Quốc hội, Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong kiểm tra, giám sát việc tổ chức trưng cầu ý dân.

- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có các nhiệm vụ, quyền hạn sau (khoản 1, Điều 20): Chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức trưng cầu ý dân trên địa bàn cấp tỉnh theo quy định của pháp luật; chỉ đạo thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong quá trình tổ chức trưng cầu ý dân ở địa phương; tổ chức in ấn thẻ cử tri, phiếu trưng cầu ý dân, biểu mẫu và các tài liệu khác phục vụ việc tổ chức trưng cầu ý dân trên địa bàn; phân bổ kinh phí và bảo đảm các điều kiện cần thiết khác phục vụ việc tổ chức trưng cầu ý dân trên địa bàn cấp tỉnh; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong tổ chức trưng cầu ý dân theo thẩm quyền; báo cáo tình hình tổ chức việc trưng cầu ý dân với Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ; nhận, kiểm tra báo cáo kết quả kiểm phiếu trưng cầu ý dân do Ủy ban Nhân dân cấp xã gửi đến; lập báo cáo kết quả trưng cầu ý dân tại địa phương mình gửi Ủy ban thường vụ Quốc hội.

- Ủy ban nhân dân cấp huyện có các nhiệm vụ, quyền hạn sau (khoản 2, Điều 20): Chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức trưng cầu ý dân trên địa bàn cấp huyện theo quy định của pháp luật; phê chuẩn việc xác định khu vực bỏ phiếu trưng cầu ý dân của Ủy ban nhân dân cấp xã; chỉ đạo thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền về trưng cầu ý dân và công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong quá trình tổ chức trưng cầu ý dân ở địa phương; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong việc thực hiện trưng cầu ý dân tại địa phương theo thẩm quyền; báo cáo tình hình tổ chức việc trưng cầu ý dân với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; ở huyện không có đơn vị hành chính xã, thị trấn thì Ủy ban nhân dân huyện thực hiện cả các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản 3 Điều này.

- Ủy ban Nhân dân cấp xã có các nhiệm vụ, quyền hạn sau (khoản 3, Điều 20): Xác định khu vực bỏ phiếu trưng cầu ý dân; thành lập Tổ trưng cầu ý dân ở từng khu vực bỏ phiếu; thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền về trưng cầu ý dân và công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong quá trình tổ chức trưng cầu ý dân ở địa phương; tổ chức việc bỏ phiếu trưng cầu ý dân ở địa phương; giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải đáp thắc mắc của cử tri và xử lý vi phạm pháp luật trong việc thực hiện trưng cầu ý dân tại địa phương theo thẩm quyền; báo cáo tình hình tổ chức việc trưng cầu ý dân với Ủy ban nhân dân cấp huyện; nhận, kiểm tra báo cáo kết quả kiểm phiếu trưng cầu ý dân do Tổ trưng cầu ý dân gửi đến; lập báo cáo kết quả trưng cầu ý dân tại địa phương mình gửi Ủy ban Nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh.

- Về thành lập Tổ trưng cầu ý dân và nhiệm vụ, quyền hạn của Tổ trưng cầu ý dân (Điều 21): Tổ trưng cầu ý dân được thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu chậm nhất là 40 ngày trước ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân. Tổ trưng cầu ý dân có từ chín đến mười một thành viên gồm Tổ trưởng, Thư ký và các thành viên là đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đại diện cử tri ở địa phương. Đơn vị vũ trang nhân dân được xác định là khu vực bỏ phiếu riêng được thành lập một Tổ trưng cầu ý dân có từ bảy đến chín thành viên gồm Tổ trưởng, Thư ký và các thành viên là đại diện chỉ huy đơn vị và đại diện quân nhân của đơn vị vũ trang nhân dân đó. Trong trường hợp đơn vị vũ trang nhân dân và địa phương có chung một khu vực bỏ phiếu thì Ủy ban nhân dân cấp xã sau khi thống nhất với chỉ huy đơn vị vũ trang nhân dân quyết định thành lập Tổ trưng cầu ý dân có từ chín đến mười một thành viên gồm Tổ trưởng, Thư ký và các thành viên là đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đại diện cử tri ở địa phương, đại diện chỉ huy đơn vị và đại diện quân nhân của đơn vị vũ trang nhân dân đó.

Tổ trưng cầu ý dân có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Phụ trách công tác trưng cầu ý dân tại khu vực bỏ phiếu trưng cầu ý dân; bố trí phòng bỏ phiếu và chuẩn bị hòm phiếu; nhận tài liệu và phiếu trưng cầu ý dân từ Ủy ban nhân dân cấp xã; phát thẻ cử tri, phiếu trưng cầu ý dân có đóng dấu của Tổ trưng cầu ý dân cho cử tri; thông báo cho cử tri biết thời gian, địa điểm bỏ phiếu trưng cầu ý dân; bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh quy định của pháp luật về trưng cầu ý dân và nội quy phòng bỏ phiếu; kiểm phiếu và lập biên bản kết quả kiểm phiếu để gửi đến Ủy ban nhân dân cấp xã; giải quyết khiếu nại, tố cáo của cử tri; báo cáo Ủy ban nhân dân cấp xã về các khiếu nại, tố cáo của cử tri không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình; chuyển biên bản kết quả kiểm phiếu và toàn bộ phiếu trưng cầu ý dân đến Ủy ban nhân dân cấp xã; báo cáo tình hình tổ chức trưng cầu ý dân theo hướng dẫn của Ủy ban nhân dân cấp xã; tổ chức việc bỏ phiếu lại tại khu vực bỏ phiếu trưng cầu ý dân (nếu có). Tổ trưng cầu ý dân kết thúc hoạt động sau 30 ngày kể từ ngày kết quả trưng cầu ý dân được công bố.

15. Về nguyên tắc lập danh sách cử tri, những trường hợp không được ghi tên vào danh sách cử tri, thẩm quyền lập danh sách cử tri, việc niêm yết danh sách cử tri, khiếu nại và giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri, việc cử tri bỏ phiếu nơi khác và quy định về khu vực bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý dân (Điều 24-Điều 30)

Mặc dù phần này có một số quy định tương đồng với Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng Nhân dân nhưng tính chất của cuộc bầu cử khác với cuộc trưng cầu ý dân. Bầu cử là cử tri bầu ra đại biểu đại diện cho mình, còn trưng cầu ý dân là việc cử tri thể hiện ý trí của mình về một vấn đề cụ thể; việc quy định trực tiếp sẽ giúp cho việc tiếp cận văn bản được dễ dàng hơn; một số thuật ngữ cũng sử dụng khác nhau, do vậy, Luật này quy định cụ thể về nguyên tắc lập danh sách cử tri, những trường hợp không được ghi tên vào danh sách cử tri, thẩm quyền lập danh sách cử tri, việc niêm yết danh sách cử tri, khiếu nại và giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri, việc cử tri bỏ phiếu nơi khác và quy định về khu vực bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý dân mà không quy định dẫn chiếu áp dụng theo các quy định tương ứng của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.

Cử tri là Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đủ mười tám tuổi trở lên tính đến ngày trưng cầu ý dân có quyền bỏ phiếu để biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 25 của Luật. Cử tri là công dân Việt Nam ở nước ngoài trở về Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau khi danh sách cử tri đã được niêm yết đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ thì đến xuất trình hộ chiếu có ghi quốc tịch Việt Nam tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi mình đăng ký thường trú hoặc tạm trú để được ghi tên vào danh sách cử tri và được phát thẻ cử tri (khoản 4, Điều 24). 

Luật mở rộng người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên vào danh sách cử tri tại nơi người đó đang bị tạm giam, tạm giữ, nơi có cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.

16. Về mục đích, nguyên tắc thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân; nội dung thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân; thời điểm thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân; các hình thức thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân và trách nhiệm cơ quan, tổ chức trong thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân (Điều 31-34)

- Về mục đích, nguyên tắc thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân (Điều 31): Việc thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân có đặc thù riêng. Đó là thông tin, tuyên truyền về vấn đề trưng cầu ý dân, về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cử tri trong việc tham gia trưng cầu ý dân; động viên cử tri đi bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý dân, không vận động cử tri bỏ phiếu hay ủng hộ phương án cụ thể. Nội dung này khác với thông tin, tuyên truyền, vận động trong bầu cử là người ứng cử được vận động cử tri trực tiếp bỏ phiếu cho mình. Luật quy định: “Việc thông tin, tuyên truyền về trưng cầu ý dân nhằm cung cấp thông tin đầy đủ, đúng đắn về vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân để cử tri hiểu rõ ý nghĩa của việc trưng cầu ý dân, nội dung trưng cầu ý dân; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cử tri trong việc tham gia trưng cầu ý dân; động viên, khuyến khích cử tri tham gia tích cực vào việc bỏ phiếu trưng cầu ý dân. Việc thông tin, tuyên truyền về trưng cầu ý dân được tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, khoa học, đúng pháp luật, thuận lợi cho cử tri và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội”.

- Về nội dung, hình thức, thời gian và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong thông tin, tuyên truyền về trưng cầu ý dân.

   Để việc thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân đạt được mục đích và đảm bảo nguyên tắc theo quy định tại Điều 31, Luật đã quy định cụ thể:

(1) Nội dung thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân gồm: Sự cần thiết của việc trưng cầu ý dân; mục đích, quan điểm trưng cầu ý dân; nội dung trưng cầu ý dân; các phương án, giải pháp để thực hiện kết quả trưng cầu ý dân; đối tượng, phạm vi tác động của vấn đề trưng cầu ý dân; thời gian tổ chức trưng cầu ý dân; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cử tri trong việc tham gia trưng cầu ý dân.

(2) Hình thức thông tin, tuyên truyền về trưng cầu ý dân gồm: Phát hành các ấn phẩm, tài liệu chính thức của Ủy ban thường vụ Quốc hội về vấn đề được trưng cầu ý dân; tổ chức thông tin, tuyên truyền về trưng cầu ý dân trên các phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật; thông qua hội nghị cử tri do Ủy ban Nhân dân cấp xã tổ chức và các hình thức khác do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.

(3) Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong thông tin, tuyên truyền về trưng cầu ý dân là: Ủy ban thường vụ Quốc hội chủ trì, phối hợp với Chính phủ chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền về trưng cầu ý dân trong phạm vi cả nước; Ủy ban Nhân dân các cấp chỉ đạo thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền về trưng cầu ý dân ở địa phương; các cơ quan báo chí ở trung ương và địa phương có trách nhiệm tuyên truyền về trưng cầu ý dân, thông tin về tình hình tổ chức trưng cầu ý dân theo quy định của pháp luật, sự chỉ đạo của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Ủy ban Nhân dân các cấp; cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang Nhân dân và chính quyền địa phương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tham gia và tạo điều kiện cho công tác thông tin, tuyên truyền về trưng cầu ý dân ở cơ quan, tổ chức, đơn vị và địa phương mình.

17. Phiếu trưng cầu ý dân (Điều 35)

Luật quy định trưng cầu ý dân được tổ chức trên phạm vi toàn quốc (không tổ chức trưng cầu ý dân riêng ở địa phương hay khu vực nhất định); Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội, do đó, Luật quy định phiếu trưng cầu ý dân được sử dụng thống nhất trong phạm vi cả nước, trong đó, nội dung phiếu trưng cầu ý dân phải đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, khách quan, chính xác và rõ nghĩa. Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định cụ thể về nội dung, hình thức phiếu trưng cầu ý dân; việc in ấn, phát hành và quản lý phiếu trưng cầu ý dân.

18. Về thời gian và địa điểm bỏ phiếu; bỏ phiếu sớm, hoãn ngày bỏ phiếu; quyền, nghĩa vụ của cử tri và nguyên tắc bỏ phiếu trưng cầu ý dân (Điều 36-Điều 39)

Các nội dung này cơ bản tương đồng với các quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân và được quy định cụ thể từ Điều 36 đến Điều 39 của Luật. Theo đó, việc bỏ phiếu trưng cầu ý dân bắt đầu từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối cùng ngày, Tổ trưng cầu ý dân có thể quyết định cho bắt đầu việc bỏ phiếu sớm hơn nhưng không được trước năm giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không được quá chín giờ tối cùng ngày.

19. Về kiểm phiếu; phiếu trưng cầu ý dân không hợp lệ; khiếu nại, tố cáo về kiểm phiếu; biên bản kết quả kiểm phiếu của Tổ trưng cầu ý dân (Điều 40-Điều 43)

Các nội dung này cơ bản tương đồng với các quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân và được quy định cụ thể từ Điều 40 đến Điều 43 của Luật. Biên bản kết quả kiểm phiếu trưng cầu ý dân được lập thành hai bản, có chữ ký của Tổ trưởng, Thư ký Tổ trưng cầu ý dân và hai cử tri được mời chứng kiến việc kiểm phiếu. Toàn bộ biên bản và phiếu trưng cầu ý dân được niêm phong và gửi đến Ủy ban Nhân dân cấp xã (là cơ quan có trách nhệm tổ chức bỏ phiếu trưng cầu ý dân ở địa phương) chậm nhất là 03 ngày sau ngày bỏ phiếu để tổng hợp và lưu trữ.       

20. Về kết quả trưng cầu ý dân (Điều 44)

Biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân là quyền của công dân, kết quả trưng cầu ý dân cần thể hiện đúng ý chí nguyện vọng của người dân, thực tế tổ chức bầu cử ở nước ta đã chứng minh việc thu hút, bảo đảm sự tham gia đông đảo của cử tri cả nước là hoàn toàn có cơ sở, do đó, để bảo đảm hiệu lực của vấn đề trưng cầu ý dân được đông đảo cử tri cả nước tham gia, Luật quy định:

1. Cuộc trưng cầu ý dân hợp lệ phải được ít nhất ba phần tư tổng số cử tri  cả nước có tên trong danh sách cử tri đi bỏ phiếu.

2. Nội dung trưng cầu ý dân được quá nửa số phiếu hợp lệ tán thành có giá trị thi hành; đối với trưng cầu ý dân về Hiến pháp quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật này phải được hai phần ba số phiếu hợp lệ tán thành.

21. Báo cáo kết quả trưng cầu ý dân của Ủy ban Nhân dân cấp xã và Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh (Điều 45-Điều 46)

Luật quy định, Báo cáo kết quả trưng cầu ý dân của Ủy ban nhân dân cấp xã được lập thành ba bản; một bản gửi đến Ủy ban nhân dân cấp huyện, một bản gửi đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chậm nhất là 05 ngày sau ngày bỏ phiếu kèm theo biên bản kết quả kiểm phiếu của các Tổ trưng cầu ý dân và một bản lưu trữ. Báo cáo kết quả trưng cầu ý dân của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được lập thành hai bản; một bản gửi đến Ủy ban thường vụ Quốc hội chậm nhất là 09 ngày sau ngày bỏ phiếu kèm theo biên bản kết quả kiểm phiếu của các Tổ trưng cầu ý dân và một bản lưu trữ.

Ủy ban nhân dân cấp huyện không phải lập Báo cáo kết quả trưng cầu ý dân của địa phương mình nhằm rút ngắn thời gian và thủ tục không cần thiết.

Báo cáo kết quả trưng cầu ý dân của Ủy ban nhân dân cấp xã và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ xác định số phiếu tán thành và số phiếu không tán thành với mỗi phương án được đưa ra trong phiếu trưng cầu ý dân, còn kết quả trưng cầu ý dân do Ủy ban thường vụ Quốc hội tổng hợp kết quả và công bố theo quy định của Luật.

Nội dung Báo cáo kết quả trưng cầu ý dân của Ủy ban nhân dân cấp xã và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được quy định cụ thể Điều 45 và Điều 46 Luật.

22. Bỏ phiếu trưng cầu ý dân lại (Điều 47)

Luật quy định, Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền huỷ bỏ kết quả bỏ phiếu trưng cầu ý dân ở khu vực bỏ phiếu có vi phạm pháp luật nghiêm trọng và quyết định ngày bỏ phiếu lại ở khu vực bỏ phiếu. Ở khu vực bỏ phiếu có số lượng cử tri đi bỏ phiếu nhiều hay ít không là căn cứ dẫn đến việc phải huỷ bỏ kết quả bỏ phiếu trưng cầu ý dân ở khu vực bỏ phiếu đó (điểm này khác với Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân).

23. Về xác định và công bố kết quả trưng cầu ý dân (Điều 48)

Phù hợp với Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội, Luật quy định, sau khi nhận và kiểm tra báo cáo kết quả trưng cầu ý dân của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và giải quyết những khiếu nại, tố cáo (nếu có), Ủy ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết xác định kết quả trưng cầu ý dân trong cả nước.

Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội xác định kết quả trưng cầu ý dân phải được công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân; trường hợp bỏ phiếu lại thì thời hạn công bố kết quả trưng cầu ý dân chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày bỏ phiếu lại. 

24. Báo cáo Quốc hội về kết quả trưng cầu ý dân (Điều 49)

Cùng với việc công bố kết quả trưng cầu ý dân, Luật quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm báo cáo Quốc hội về kết quả trưng cầu ý dân tại kỳ họp gần nhất. Căn cứ vào kết quả trưng cầu ý dân, Quốc hội quyết định các biện pháp cần thiết để bảo đảm thực hiện kết quả trưng cầu ý dân.

25. Xử lý vi phạm phạm pháp luật về trưng cầu ý dân (Điều 50)

Tương đồng với quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật quy định: Người nào có hành vi vi phạm quy định của Luật này thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Người nào cản trở hoặc trả thù người khiếu nại, tố cáo về trưng cầu ý dân thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành (Điều 52)

Luật giao Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ quy định chi tiết các điều, khoản được giao trong Luật và hướng dẫn việc thi hành Luật này.

2. Dự kiến kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật bao gồm những nội dung cơ bản sau:

- Thực hiện đăng tải toàn văn nội dung của Luật trên trang thông tin điện tử các cơ quan hữu quan (Cơ sở dữ liệu pháp luật quốc gia, Cổng thông tin điện tử của Chính phủ, của Hội Luật gia Việt Nam…).

- Tổ chức biên soạn tài liệu, đề cương tuyên truyền, phổ biến nội dung cơ bản của Luật phù hợp với từng nhóm đối tượng, địa bản; tổ chức quán triệt, tập huấn chuyên sâu nội dung và tinh thần của Luật tới cán bộ, công chức, viên chức, thành viên, hội viên của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị-xã hội-nghề nghiệp, tổ chức xã hội.

- Tổ chức tuyên truyền và phổ biến rộng rãi nội dung, tinh thần của Luật tới các tầng lớp Nhân dân; tích cực vận động Nhân dân tự giác học tâp, tìm hiểu, tuân thủ và chấp hành pháp luật về trưng cầu ý dân.

Về nội dung tuyên truyền, phổ biến: Nội dung của Luật không dài, hầu hết đều liên quan đến tất cả các đối tượng, do vậy việc tổ chức tuyên tuyền, phổ biến toàn bộ nội dung của Luật tới tất cả các đối tượng là cần thiết./.

  

Các tin khác
ĐẤU THẦU - MUA SẮM CÔNG